Đền Hùng là tên gọi khái quát tổng thể đền chùa thờ phụng các Vua Hùng và tôn thất của nhà vua trên núi Nghĩa Lĩnh, gắn với lễ hội Đền Hùng được tổ chức tại địa điểm đó hàng năm vào ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch. Hiện nay, theo các tài liệu khoa học đã công bố đa số đều thống nhất nền móng kiến trúc Đền Hùng bắt đầu được xây dựng từ thời vua Đinh Tiên Hoàng. Đén thời Hậu Lê - thế kỷ 15 được xây dựng hoàn chỉnh theo quy mô như hiện tại.
- Quần thể di tích Đền Hùng nằm từ chân núi đến đỉnh ngọn núi Nghĩa Lĩnh cao 175m (núi có những tên gọi như: Núi Cả, Nghĩa Lĩnh, Nghĩa Cương, Hy Cương, Hy Sơn, Bảo Thiếu Lĩnh, Bảo Thiếu Sơn) , thuộc địa phận xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Trong khu rừng được bảo vệ nghiêm ngặt giáp với những xã thuộc huyện Lâm Thao, Phù Ninh và vùng ngoại ô thành phố Việt Trì, cách trung tâm thành phố Việt Trì khoảng 10km, khu vực Đền Hùng ngày nay nằm trọng địa phận của kinh đô Phong Châu của quốc gia Văn Lang cổ xưa. Theo cuốn ngọc phả Hùng Vương, đương thời các Vua Hùng đã cho xây dựng điện Kính Thiên tại khu vực núi Nghĩa Lĩnh này.
- Đền Hùng được bộ văn hóa thông tin xếp hạng là khu di tích đặc biệt của quốc gia vào năm 1962. Đến năm 1967, chính phủ Việt Nam đã quyết định khoanh vùng xây dựng khu rừng cấm Đền Hùng. Ngày mùng 8 tháng 2 năm 1994, thủ tướng chính phủ Việt Nam đã phê duyệt dự án quy hoạch tổng thể khu di tích lịch sử Đền Hùng lần thứ nhất, tạo tiền đề cho việc đầu tư xây dựng nhiều công trình hạng mục trong khu di tích.
Ngày mùng 6 tháng 1 năm 2001, chính phủ Việt Nam ban hành nghị định số 82/2001/NĐ-CP, quy định về quy mô, nghi lễ tổ chức Giỗ Tổ Hùng Vương và Lễ Hội Đền Hùng hàng năm. Ngày mùng 10 tháng 3 trở thành ngày quốc lễ, ngày Giỗ Tổ Hùng Vương.
Khu di tích lịch sử Đền Hùng đã không ngừng lớn mạnh, được thể hiện sâu sắc và rõ nét hơn qua hàng loạt công trình kiến trúc văn hóa đầu tư xây dựng. Nổi bật nhất là từ sau quyết định số 82/2001/QĐ-TTG ngày mùng 30 tháng 3 năm 2004 về việc phê duyệt quy hoạch phát triển khu di tích lịch sử Đền Hùng đến năm 2015.
Nhiều công trình tiếp tục được xây dựng tại khu di tích Đền Hùng như đền thờ Lạc Long Quân, đường hành lễ tại trung tâm lễ hội, trụ sở làm việc và nhà tiếp đón khách của khu di tích, đài tưởng niệm các anh hùng, liệt sĩ... Trước sự phát triển và quy mô ngày càng lớn, đòi hỏi phải có một bộ máy quản lý tương xứng. Ngày 23 tháng 2 năm 2005, UBNN tỉnh Phú Thọ đã ban hành quyết định 525/2005/QĐ-UB về việc nâng cấp ban quản lý khu di tích Đền Hùng thuôc sở văn hóa thông tin Phú Thọ thành khu di tích lịch sử Đền Hùng trực thuộc UBNN tỉnh.
- Các di tích chính:
Cổng dẫn lên khu di tích Đền Hùng
1. Đền Hạ: Tương truyền là nơi Âu cơ...sinh hạ bọc trăm trứng, sau nở 100 người con.
Đền Hạ
2. Nhà Bia: nhà bia nằm ngay cạnh Đền Hạ có kiến trúc hình lục giác với 6 mái. Trong này đặt tấm bia khắc dòng chữ quốc ngữ "Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước". Đây là câu nói nổi tiếng của Chủ Tịch Hồ Chí Minh trong chuyến thăm Đền Hùng ngày 19 tháng 9 năm 1954.
3. Chùa Thiên Quang: còn gọi là Thiên quang thiền tự, tọa lạc gần Đền Hạ.
4. Đền Trung: Tương truyền là nơi các Vua Hùng cùng các Lạc Hầu, Lạc Tướng du ngoạn Nghĩa Lĩnh ngắm cảnh và họp bàn việc nước.
Đền Trung
5. Đền Thượng: Đền được đặt trên đỉnh núi, nơi ngày xưa theo truyền thuyết các Vua Hùng thường lên tiến hành các nghi lễ, tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp thờ trời đất, thờ thần lúa, cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, nhân khang vật thịnh. Ngoài cổng đền có dòng đại tự "Nam Việt Triệu Tổ" (Tổ Tiên của Việt Nam)
Đền Thượng
6. Cột Đá Thề: Bên phía tay trái Đền Thượng có một cột đá gọi là Cột Đá Thề, tương truyền do Thục Phán dựng lên khi được Vua Hùng thứ 18 truyền ngôi để thề nguyện bảo vệ non sông đất nước mà Hùng Vương trao lại và đời đời hương khói trông nom miếu vũ họ Vương.
7. Lăng Hùng Vương: Tương truyền là mộ của Vua Hùng thứ 6. Lăng mộ nằm ở phía đông Đền Thượng, mặt quay theo hướng đông nam. Xưa đây là một mộ đất, thời Tự Đức năm thứ 27 (năm 1870) đã cho xây mộ dựng lăng. Thời Khải Định tháng 7 (năm 1922) trùng tu lại.
8. Đền Giếng: Tương truyền là nơi Công Chúa Tiên Dung và Công Chúa Ngọc Hoa (con gái của Vua Hùng thứ 18) thường soi gương, vấn tóc khi theo cha đi kinh lý qua vùng này. Đền được xây dựng vào thế kỷ thứ 18.
Đền Giếng
9. Đền Tổ Mẫu Âu Cơ: Là một ngôi đền mới, được bắt đầu xây dựng vào năm 2001 và khánh thành tháng 12 năm 2004. Đền được xây dựng trên núi Ốc Sơn (núi vặn).
- Khu di tích lịch sử Đền Hùng bao gồm 4 đền chính là Đền Hạ, Đền Trung, Đền Thượng và Đền Giếng. Từ những bậc đầu tiên dưới chân núi, du khách sẽ qua cánh cổng, bước nhiều bậc đá lên thắp hương và thăm thú các đền, kết thúc tại Đền Thượng trên đỉnh Nghĩa Lĩnh, nơi có lăng mộ Vua Hùng thứ 6.
- Văn học dân gian Việt Nam nói về Lễ Hội Đền Hùng như sau:
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba
Lễ hội Đền Hùng còn gọi là Giỗ Tổ Hùng Vương là một lễ hội lớn mang tầm vóc quốc gia ở Việt Nam, tưởng nhớ và tỏ lòng biết ơn công lao lập nước của các Vua Hùng, những vị vua đầu tiên của dân tộc. Lễ hội được diễn ra vào ngày mùng 10 tháng 3 (Âm lịch) tuy nhiên lễ hội thực chất đã diễn ra từ hàng tuần trước đó với những phong tục như đâm đuống (đánh trống đồng) của dân tộc Mường, hành hương tưởng niệm các Vua Hùng, và kết thúc vào ngày mùng 10 tháng 3 (Âm lịch) với lễ rước kiệu và dâng hương trên Đền Thượng. Lễ hội Đền Hùng được Nhà Nước Xã Hội CHủ Nghĩa Việt Nam nâng lên thành Giỗ Quốc Tổ tổ chức vào những năm chẵn.
Có hai lễ được cử hành cùng thời điểm ngày chính hội:
1. Lễ rước kiệu vua: Đám rước kiệu với màu sắc sặc sỡ của bạt ngàn cờ, hoa, lọng, kiệu, trang phục truyền thống xuất phát từ dưới chân núi rồi lần lượt qua các đền để tới Đền Thượng nơi làm lễ dâng hương. Đám rước như một con rồng uốn lượn trên những bậc đá dưới những tán lá cây để tới đỉnh núi thiêng.
2. Lễ dâng hương: Người hành hương tới Đền Hùng chủ yếu vì nhu cầu đời sống của tâm linh. Mỗi người đều thắp lên vài nén hương khi tới đất Tổ để nhờ làn khói thơm nói hộ những lời tâm niệm của mình với Tổ Tiên. Trong tâm hồn người Việt thì mỗi nắm đất, gốc cây nơi đây đều linh thiêng và chẳng có gì khó hiểu khi nhìn thấy những gốc cây, hốc đá cắm đỏ những chân hương.
Phần hội có nhiều trò chơi dân gian đặc sắc. Đó là những cuộc thi hát xoan tức hát ghẹo, một hình thức dân ca đặc biệt của Phú Thọ, những cuộc thi vật, thi kéo co, hay thi bơi trải ở ngã ba sông Bạch Hạc, nơi các Vua Hùng luyện tập các đoàn thủy binh luyện chiến.
Từ năm 2001, Giỗ Tổ Hùng Vương trở thành quốc lễ. Từ ngày mùng 10 tháng 3 năm 2007 - Âm lịch hàng năm là ngày nghỉ lễ. Lễ hội Đền Hùng những năm lẻ sẽ do tỉnh Phú Thọ đứng ra tổ chức. Các năm chẵn sẽ có quy mô ở các cấp trung ương. Lễ hội Đền Hùng không chỉ diễn ra ở các khu di tích lịch sử Đền Hùng Phú Thọ mà sẽ diễn ra ở nhiều địa phương trong cả nước như Thành Phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Đà Nẵng...
Theo nghị định 82/2001/NĐ-CP về việc quy ước Lễ Hội Đền Hùng thì:
- Năm chẵn: là số năm kỷ niệm có chữ số cuối cùng là "0", "Năm tròn" là số năm kỷ niệm có chữ cuối cùng là "5". Trung ương bộ văn hóa - thể thao và du lịch cùng UBNN tỉnh Phú Thọ tổ chức lễ hội, mời đại diện lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính Phủ, Ủy ban trung ương mặt trận tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể dự lễ đang hương.
- Năm lẻ: là số năm kỷ niệm các chữ số cuối cùng còn lại. UBNN tỉnh Phú Thọ tổ chức lễ hội, mời lãnh đạo Bộ Văn Hóa - Thông tin dự lễ dâng hương và tổ chức các hoạt động trong lễ hội.
Ngoài ra, Trống Đồng mang tên Trống Hy Cương được tìm thấy ở xã Hy Cương ngay phía chân núi Nghĩa Lĩnh ngày mùng 7 tháng 8 năm 1990 khi một gia đình đào hố tôi vôi. Trống khá nguyên vẹn, có đường kính mặt 93cm và chiều cao 70cm, là trống đồng Đông Sơn có kích thước lớn nhất trong tổng số trống Đông Sơn đã biết ở Việt Nam và Đông Nam Á. Trống có hoa văn trang trí phong phú và cách điệu hóa cao độ, trong đó có các loại hoa văn chủ đạo như hình ngôi sao 12 cánh có đường kính đến 20cm, 8 con chim lạc đà dài 15cm bay theo hướng ngược chiều kim đồng hồ, hình người hóa trang cách điệu chỉ có mắt và lông công, thuyền... Có thể quanh Hy Cương còn nhiều trống đồng chưa được phát hiện ra, nhưng với việc phát triển trống lớn như một bằng chứng khảo cổ tại chân núi Nghĩa Lĩnh, cho thấy vị trí đặc biệt của Hy Cương và Đền Hùng trong lịch sử dân tộc ( trống lớn thường thuộc sở hữu của một vị tù trưởng hoặc thủ lĩnh rất lớn), là một trong những minh chứng khẳng định tính lịch sử của huyền thoại các Vua Hùng. Trống hiện được lưu giữ trong bảo tàng Hùng Vương với số đăng ký ĐH 2012 (theo số mới), số cũ là 1549.
- Công lao của Vua Hùng:
Mẹ tiên Âu Bố rồng Lạc - khởi nguyên thần thoại dân tộc Việt Nam, nhưng Âu Việt miền đồi gò thung lũng kết hợp với Lạc Việt miền sông núi biển cả để trở thành Âu - Lạc và miền đất Tổ, xuất phát điểm địa lý của sự hình thành. Nhà nước của người Việt cổ là một hiện thực. Chuyện Hùng Vương kén rể, chuyện tình của Sơn Tinh tức thần núi Tản, của Thủy Tinh thần nước với Mỵ Nương công chúa là huyền thoại... cũng là huyền thoại khi tổ tiên ta nhìn những ngọn đồi trung du thành 99 con voi về chầu đất Tổ.
Nhưng sự dựng nghiệp nước của các Vua Hùng, sự nghiệp chống ngoại xâm giữ nước của Việt cổ lại là sự thật lịch sử rõ ràng. Sự thực đó hiển hiện qua hàn trăm di chỉ đồ đá, đồ đồng, đồ sắt sớm được phát hiện và khai quật bao năm qua trên miền đất Tổ. Và những chiếc cuốc đá, rìu sắt, lưỡi cày, lưỡi hái đồng thau... cùng bao vòng tay hạt chuỗi, khuyên tai đá, ngọc đứng xếp hàng trong nhà bảo tàng đất Tổ - Vua Hùng là những vật minh chứng cho cả một chặng đường dài lịch sử và thiên niên kỷ trước công nguyên. Công việc của các nhà khoa học là "Giải ảo hiện thực" như cách nói của giáo sư sử học Trần Quốc Vượng - để phục chế lại sự thực lịch sử khách quan thời đại của các Vua Hùng. Còn dân gian xưa thì nội tâm hóa mọi nghiệm sinh lịch sử đề qua cái nhìn huyền thoại, huyền tích mà xuất lộ những câu chuyện truyền khẩu để đời.
Trong các truyền thuyết của người Việt có rất nhiều truyền thuyết liên quan đến thời đại của các Vua Hùng được truyền lại trong dân gian đến nay. Đó là Chuyện Vua Hùng kén rể, chuyện nàng Công chúa Tiên Dung với chàng trai nghèo Chử Đồng Tử, là sự tích Bánh Chưng, bánh dày gắn với tích Hùng Vương chọn người truyền ngôi báu... Nhưng cùng với những truyền thuyết đó là những trang sử được ghi lại "Thời Trang Vương nhà Chu Năm 692-682 TCN, ở bộ Gia Ninh có dị nhân dùng yêu thuật áp phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, truyền 18 đời đều gọi là Hùng Vương" (Đại Việt sử lược). Trong Đại Nam nhất thống chí - Quốc sử quán Triều Nguyễn cũng thấy chép rằng, Hùng Vương đóng đô ở Phong Châu, nay là huyện Bạch Hạc.
Từ ngày Cách mạng tháng tám thành công, Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt coi trọng việc đầu tư cho các công trình nghiên cứu khảo cổ học để tìm ra những bằng chứng đích thực của buổi đầu dựng nước. Nhiều công trình đã chứng minh được rằng, từ ngàn năm trước, dải đất từ Việt trì đến Đền Hùng và một số địa danh phụ cận là đất phát tích của người Việt Nam. Nơi đây đã tìm ra đời một kinh đô đầu tiên, nhà nước đầu tiên trong lịch sử Việt Nam và Đền Hùng là nơi thờ tự 18 đời Vua Hùng theo tín ngưỡng thờ cúng Tổ Tiên của người Việt. Mỗi địa danh trên đất Phú Thọ, đặc biệt là dải đất từ Việt Trì đến Đền Hùng đều có tên gọi gắn liền với một tích cổ thời Hùng Vương. Tích Vua Hùng chọn đất đóng đô ở Bạch Hạc, nơi hội tụ của 3 con sông, cửa ngõ giao lưu với đường thủy. Mùa xuân hằng năm trên bến sông này lại có hội bơi chải diễn lại tích "Thổ Lệnh Thạch Khanh" từ thời nhà Hùng. Tích Vua Hùng dạy dân cấy lúa được thể hiện lại ở Minh Nông, Đất Dữu Lâu có vườn trầu của nhà Vua, Đất Hương Trầm gắn liền với tích về một cánh đồng, nơi Hoàng Tử Lang Liêu trông lúa thơm làm bánh chưng, bánh dày...
Có thể thấy, khi đặt các tích cổ và các công trình khảo cổ khoa học về Đền Hùng và những vùng đất lân cận bên cạnh nhau, thêm một lần chúng ta có cơ sở để công nhận Đền Hùng là Đất Tổ của người Việt. Và cũng có thể nhận định, Đền Hùng là một khu di tích chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc về cội nguồn của dân tộc Việt ta. Tín Ngưỡng thờ cúng Tổ Tiên bền vững và sống mãi trong tâm thức của 54 đồng bào các dân tộc Việt Nam, truyền từ đời này sang đời khác, qua các Triều đại Đinh, Lý, Trần, Lê... Đã làm lên sức mạnh phi thường của cả dân tộc suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước. Thời nhà Lê đã phong cho làng Cổ Tích, xã Hy Cương làm "con trưởng tạo lệ", cho miễn các thứ thuế, chỉ đầu tư trông non thờ cúng Hùng Vương vào ngày mùng 3 tháng 10 - Âm lịch hàng năm. Chính cái hay cái đẹp khi hành hương về Đất Tổ ngày mùng 10 tháng 3, khi trở về "cội nguồn dân tộc" là như vậy. Ta đi thăm Đền Thượng, Đền Trung, Đền Hạ, Đền Giếng... Ta nhìn ngắm vùng ngã ba sông hoành tráng, những núi đồi như bát úp ở trung du... Ta tìm cái thực mà cứ ngỡ nhơ trong mơ, ta đặt chân nên tảng nền Đất Tổ nhưng tâm ta lại được hòa trong khói hương huyền thoại. Và cũng vẫn còn đó âm vang lời Bác Hồ kính yêu dặn đoàn quân chiến thắng về tiếp quản Thủ Đô tại Đền Hùng ngày 19 tháng 9 năm 1954 "Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước".
Reporter - Quyền Lực